Khí chất người làm báo xứ Quảng

Thứ bảy, 21/06/2025 10:08

Theo lịch sử nền báo chí Việt Nam, từ khi ra đời và phát triển, trải qua các giai đoạn, những người làm báo xuất thân xứ Quảng đa phần là đội ngũ chủ lực của nền báo chí nước nhà. Trong đó điển hình như Lương Khắc Ninh (1862-1943), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Phan Khôi (1887-1959)... Những người này đã thể hiện rõ nhất tính cách của người Quảng nói chung và khí chất người làm báo nói riêng trong mỗi giai đoạn lịch sử.

Hội Nhà báo TP Đà Nẵng chụp hình lưu niệm tại Nhà Lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng ở xã Tiên Cảnh (huyện Tiên Phước, Quảng Nam) vào tháng 10-2023.
Chân dung nhà báo Lương Khắc Ninh

Gò Nổi - quê hương những bậc anh hào

Ông Lương Khắc Ninh (1862, quê làng Bảo An, xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, Quảng Nam) nhưng lớn lên tại tỉnh Bến Tre. Ông học chữ quốc ngữ và Pháp văn tại một trường Pháp ở Mỹ Tho. Sau khi tốt nghiệp ông được phân làm viên chức sở Thương chánh Bến Tre rồi thông dịch viên tòa án tỉnh, Hội đồng quản hạt tỉnh trước khi vào làm tại Hội đồng tư vấn Nam Kỳ. Thế nhưng sau đó không lâu, ông đột ngột bỏ việc rồi lên Sài Gòn viết báo.

Nhắc đến Lương Khắc Ninh người ta nghĩ đến tờ “Nông cổ mín đàm”, tờ báo kinh tế đầu tiên được xuất bản tại nước ta vào những năm đầu tiên của thế kỷ XX, số đầu ra ngày 1-8-1900. “Nông cổ mín đàm” được xác định là một trong bốn tờ báo quốc ngữ đầu tiên có mặt tại Nam Kỳ. Nội dung tờ báo khẳng định vai trò của thương nghiệp trong phát triển đất nước, đề cao hàng nội hóa, hô hào tẩy chay hàng ngoại. Sau “Nông cổ mín đàm”, Lương Khắc Ninh là chủ bút của tờ “Lục tỉnh tân văn” (1907-1944), một tờ báo có vị trí quan trọng hàng đầu trong lịch sử báo chí Nam Kỳ với tư tưởng cải cách xã hội, chống thực dân mạnh mẽ.

Nhiều người nhìn nhận, nguyên quán Gò Nổi anh hùng, nơi sản sinh nhiều bậc anh hào, như Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Phạm Phú Thứ... nhưng lớn lên tại vùng đất Bến Tre, khí chất của kẻ sĩ đất Quảng hòa quyện với tính cách hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài của Nam Bộ đã hun đúc nên một Lương Khắc Ninh - cây bút tên tuổi một thời của làng báo Nam Kỳ.

Và không biết có phải do nguồn mạch văn hóa địa linh hay làng quê văn hiến mà sau đó, cũng chính tại làng Bảo An (xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn) sản sinh ra một nhà báo, nhà văn, nhà thơ tài ba Phan Khôi. Phan Khôi là con của nhà Nho yêu nước Phan Trân và bà Hoàng Thị Lệ, con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu. Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi, hay lý sự.

Khoa thi năm 1906, Phan Khôi đỗ tú tài Hán học và tự học quốc ngữ và tiếng Pháp. Năm 31 tuổi, Phan Khôi bắt đầu bước vào làng báo với bài báo đầu tiên viết bằng chữ Hán đăng trên “Nam Phong tạp chí”. Từ năm 1919, tên tuổi của ông bắt đầu xuất hiện trên các tờ báo lớn của Sài Gòn lúc bấy giờ, như: Quốc dân diễn đàn, Lục tỉnh tân văn, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Quần báo (Hoa kiều nhật báo), Trung lập, Công luận, Phụ nữ tân văn...

Cụ Phan Khôi cùng gia đình và tờ tuần báo Sông Hương do cụ sáng lập.

Sau nhiều năm cộng tác cho hàng chục tờ báo, năm 1936 Phan Khôi sáng lập tuần báo Sông Hương (1936-1937). Tuy thời gian tồn tại ngắn ngủi do thiếu khả năng tài chính, nhưng thông qua tuần báo Sông Hương, Phan Khôi đã cổ xúy cho phong trào nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam, tranh luận về tự do, về pháp luật, đồng thời chỉ trích các sắc thuế của Chính phủ bảo hộ, lên án thói bạo ngược của thực dân và đám cường hào áp bức...

Khí phách cụ Huỳnh Thúc Kháng

Khí phách nhà báo xứ Quảng thể hiện đậm nét qua tính cách, tư duy của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Sinh ra tại xã Tiên Cảnh (huyện Tiên Phước, Quảng Nam) trong một gia đình nông hào, gốc Nho học, cụ Huỳnh Thúc Kháng từng đỗ tiến sĩ nhưng từ chối ra làm quan mà chọn việc mở trường dạy học tại gia. Là người tham gia sáng lập ra phong trào Duy Tân, trải qua tù đày sống chết, nhưng khi vừa ra tù, cụ đã lập Báo Tiếng Dân.

Nổi bật tờ báo Tiếng Dân là lời trích tuyên ngôn của báo đăng trên số báo đầu tiên ra ngày 10-8-1927: “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”. Qua 16 năm tồn tại, báo Tiếng Dân đã xuất bản được 1.766 số cho đến khi bị chính quyền thực dân Pháp đình bản vào tháng 4-1943. Thông qua Tiếng Dân, Huỳnh Thúc Kháng đã bày tỏ quan điểm, lập trường yêu nước, khẳng định tấm lòng kiên trung, một tấm gương bất khuất, yêu thương giống nòi.

Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đến tháng 5-1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, cụ Huỳnh Thúc Kháng được tin tưởng giao chức vụ Quyền Chủ tịch nước (31-5 đến 20-10-1946). Dù tuổi đã cao, nhưng cụ vẫn hăng say với công việc. Trong chuyến kinh lý miền Trung tuyên truyền đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, cụ trút hơi thở cuối cùng tại huyện Nghĩa Hành (tỉnh Quảng Ngãi) vào ngày 21-4-1947.

Hội Nhà báo TP Đà Nẵng chụp hình lưu niệm tại Nhà Lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng ở xã Tiên Cảnh (huyện Tiên Phước, Quảng Nam) vào tháng 10-2023.

Về cốt tính người xứ Quảng trong mối tương quan với nhân cách Huỳnh Thúc Kháng, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây chính là di sản tinh thần quý báu mà cụ để lại cho đời, với tấm gương về lòng yêu nước, tinh thần học hỏi không ngừng và là một người làm báo, viết sử, nhà văn hóa chân thành.

Có thể nói, người Quảng với tính cách rành mạch, rõ ràng, thẳng thắn. Muốn làm rõ vấn đề nào là tìm hiểu đến tận cùng. Tính cách này được xem phù hợp với công việc của người làm báo. Do đó có thể lý giải phần nào người Quảng thành công trong nghề báo qua chiều dài lịch sử. Kế thừa những bậc tiền bối đi trước, giai đoạn sau này, người Quảng Nam làm báo trên mọi miền đất nước, qua đó những tên tuổi tạo nên tiếng vang trong nghề, như Hồ Duy Lệ, Hồ Trung Tú, Nguyễn Ngọc Hạnh, Nguyễn Đình An, Khương Hữu Dụng, Huỳnh Dũng Nhân, Phạm Sông Thu, TầnHoài Dạ Vũ, Lê Minh Quốc...

TRẦN LÊ